I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. "Bếp lửa" của nhà thơ Bằng Việt khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức tuổi ấu thơ, thao thức và pha chút đượm buồn.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thơng bà biết mấy nắng mưa…
Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa "chập chờn trong sương sớm”, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt đầu truyền thấm, bắt đầu nhen nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc thương yêu của cháu khi nhớ về bà. Hình ảnh "Một bếp lửa" điệp lại hai lần như nhắc nhớ, như hơi thở thổi vào bếp lửa đang "ấp iu", để cho mạch hồi tưởng bắt đầu... Để trong những dòng thơ tiếp theo, bao kỉ niệm thân thương cứ bất tận ùa về :
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
(...)
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Cháu nhớ, từ lúc cháu mới lên bốn tuổi, sống bên bà "tám năm ròng"... Nhớ quê mình ngày ấy, những ngày "đói mòn đói mỏi", những ngày "bố đánh xe khô rạc ngựa gầy", nhớ "khói hun nhèm mắt", "sống mũi còn cay" đến tận bây giờ... Nhớ bà kể chuyện Huế trong tha thiết tiếng tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu từ cánh đồng xa, da diết, khắc khoải vọng về, nghe chộn rộn, nao nao, lại như se sắt, xa xăm. Nhớ khi vắng bố mẹ, "bà bảo cháu nghe", "dạy cháu làm", "chăm cháu học". Nhớ "Năm giặc đốt làng", cháu giúp bà dựng lại nhà. Nhớ lời bà dặn khi viết thư để bố yên tâm,... Cứ thế, trong dòng hồi nhớ nôn nao, những sự việc cụ thể hiện về nguyên vẹn từng chi tiết như thể vừa mới xảy ra hôm qua hay vừa mới đây thôi. Và thấm đẫm trong từng hình ảnh, từng sự việc ấy là tình cảm sâu nặng của cháu với bà, hướng về bà. Hình ảnh người bà được khắc hoạ gắn liền với bếp lửa, là khi "cháu cùng bà nhóm lửa", "Nhóm bếp lửa nghĩ thơng bà khó nhọc", "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen", "Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm - Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đợm", gắn liền với nguồn năng lượng ấm áp gụi gần...
Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại (mười hai lần) trong suốt bài thơ. Cuộc đời bà lận đận, khó nhọc, giãi dầu ma nắng nhưng bà luôn dành cho cháu tình thương yêu, săn sóc, chở che ấm nồng như bếp lửa. Bà - bếp lửa là hai mà như một, hoà quyện, xuyên thấm, thiêng liêng. Bếp lửa gợi nhắc hình bóng thân thiết của bà, và nhớ đến bà là cháu lại không thể quên bếp lửa ấm tình thủa ấy. Bếp lửa đã không còn chỉ là bếp lửa thông thường nữa. Bà nhen lửa là bà nhen lên :
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bà nhóm lửa cũng là khi bà :
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Từ ngọn lửa được nhen lên trong bếp lửa của bà hoá thành ngọn lửa của tình thương yêu ấp ủ, ngọn lửa của niềm tin yêu bền bỉ cháy mãi không thôi. Bà nhóm lửa là bà nhóm lên và truyền cho cháu lẽ sống, lòng cảm thông, đức hi sinh, chia sẻ. Mỗi khi xúc cảm kết thành những suy ngẫm sâu xa, lời thơ lại trào dâng như những điệp khúc bập bùng, chứa đựng niềm xúc động rưng rưng, bừng cháy trong mạch tự sự của nhân vật trữ tình.
Những hình ảnh thực, cụ thể, vốn rất đỗi gần gũi, thân quen đã được tác giả nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc. Điều bình dị đã trở nên quý giá, thiêng liêng, kì lạ. Kì lạ, thiêng liêng vì nó nhỏ bé, giản đơn mà đã trở thành hành trang theo cháu trong suốt cuộc đời. Kì lạ, thiêng liêng là vì đã mấy chục năm rồi mà bếp lửa của bà vẫn nồng đượm trong kí ức thiêng liêng của cháu, ngọn lửa của bà vẫn thầm cháy trong cháu đến tận bây giờ:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật của Trường Đại học Tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ). Kì lạ và thiêng liêng biết bao khi trong cuộc sống đã Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả mà lòng vẫn khôn nguôi hình ảnh người bà với bếp lửa ở tận miền kí ức xa xôi của tuổi ấu thơ.
Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn lửa của bà, tình thương yêu của bà, cuộc đời bà đã soi rọi, toả ấm con đường cháu đi. Có thể cuộc sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết đến bếp lửa như ở nơi quê nghèo ấy nữa, nhưng nó đã thành biểu tượng, sẽ còn mãi giá trị khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam. Điều nhỏ nhoi, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao là như vậy.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
1. Đọc bài thơ bằng giọng hồi tưởng, nhịp chậm.
2. Đọc lại bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh (sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập một) để thấy những điểm tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện kí ức tuổi thơ giãư hai tác giả.
Tuần 17. Ngày soạn: 5/12/2016
Ngày dạy: /12/2016
KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
& ÁNH TRĂNG
Nguyễn Khoa Điềm I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ngân lên khi đất nước còn đang oằn mình dới bom đạn chiến tranh. Đất nước ấy, trong cảm hứng của Nguyễn Khoa Điềm là "Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại". Đất nước trải nhiều đau thương cũng là đất nước của khát vọng hoà bình. Tâm hồn Việt Nam ưa chuộng thơ ca, đất nước Việt Nam luôn vang tiếng hát, trong chiến đấu cam go cũng nh khi lao động, trong gian khó cũng nh lúc thảnh thơi :
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
(Nguyễn Khoa Điềm,
Trích Trờng ca mặt đường khát vọng)
Đó cũng là đất nước của những khúc hát mẹ ru con ngàn đời. Là cánh cò bay lả bay la trong lời ru con của bà mẹ Bắc Bộ, là gió mùa thu thao thức năm canh trong câu hát bà mẹ phương Nam,... và, là lời ru của bà mẹ dân tộc Tà-ôi trong khúc hát của Nguyễn Khoa Điềm. Mạch cảm hứng về Đất nước thêm một lần kết tụ, phổ thành tình yêu thương con, ước vọng cho con, thành tinh thần chiến đấu, khát vọng tự do của bà mẹ dân tộc trong lời ru ngọt ngào, tha thiết.
Hát ru vốn sống trong dân gian, của dân gian, là tâm tư, tình cảm của bao người, bao đời. Khúc hát của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng có được sức sống ấy, nên cứ ngỡ nó là một sáng tác dân gian !
2. Có thể dễ dàng nhận thấy bài thơ được chia thành 3 phần, ba khúc hát, mỗi khúc được mở đầu giống nhau bằng hai câu "Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi ; Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ" và kết thúc mỗi khúc là lời ru trực tiếp của người mẹ. Cũng có thể xem ở mỗi khúc có hai lời ru : "lời ru của nhà thơ và lời ru của mẹ" (Theo Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giaó dục, 2001, tr. 395) Nhưng dù là lời ru của mẹ hay lời của nhà thơ thì các câu thơ đều được ngắt nhịp đều đặn ở giữa. Đối với những câu 7 chữ là nhịp 3/4, đối với câu thơ 8 chữ là nhịp 4/4. Như nhịp bước chân, nhịp lên xuống của lưng mẹ, như nhịp chày, nhịp tỉa bắp, tra hạt, như nhịp thở ấm nồng,... Nhịp nhàng, đều đặn, dìu dặt là đặc điểm chung về nhịp điệu của hát ru. Nó vừa có tác dụng đưa em bé vào giấc ngủ, vừa là nhịp để người mẹ có thể tự sự, giãi bày. Điều đặc biệt ở bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhịp thơ phù hợp với nhịp hát ru, lại phù hợp với nhịp của những công việc mà người mẹ Tà-ôi làm, được cảm nhận từ chính em bé trên lưng mẹ. Trong địu trên lưng mẹ, bé và mẹ hai mà là một.
Mở đầu mỗi khúc ru là lời dỗ dành ngọt ngào :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Ba lần lời dỗ dành ấy cất lên trong ba hoàn cảnh khác nhau. Lần đầu là khi mẹ đang giã gạo :
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời :
Lần thứ hai là khi mẹ đang tỉa bắp :
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Lần thứ ba là khi mẹ đang chuyển lán :
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Những câu thơ cho ta thấy hình ảnh một người mẹ chịu thương chịu khó, yêu thương con hết mực và hết lòng với kháng chiến. Con nằm trên lưng mẹ mà có khác gì con đang nằm trong bụng mẹ. Mẹ giã gạo, nhịp chày là nhịp ru con. Mẹ tỉa bắp, nhịp tỉa bắp là nhịp đưa con vào giấc ngủ. Mẹ đạp rừng chuyển lán, con chẳng rời mẹ, để con bình yên trong nhịp chân của mẹ. Người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà giã gạo nuôi bộ đội, tỉa bắp trên núi, đạp rừng chuyển lán. Cả bài thơ chỉ có một vài hình ảnh gợi tả hình dáng người mẹ (Vai mẹ gầy... , ... lưng mẹ thì nhỏ). Nhưng tình cảm của người mẹ, lòng thương yêu con, những việc làm của mẹ cho con, cho kháng chiến lại đợc thể hiện sinh động, rõ nét. Cho nên người đọc vẫn thấy chân dung người mẹ hiện ra cụ thể, chân thật. Chân dung tinh thần ấy càng trở nên đẹp đẽ, giàu sức lay động trong những lời ngời mẹ hát lên, tiếng hát tha thiết từ trái tim. Mặt trời, ánh sáng, những cái mà cây không thể thiếu, là phía hoa lá hướng về thì nằm trên đồi. Mặt trời, niềm tin và hi vọng của mẹ, là bé đang nằm trên lưng. Hình ảnh ẩn dụ (Mặt trời của mẹ) đã diễn tả sâu sắc ý nghĩa của con trong sự sống của mẹ. Ước mơ, khát vọng của mẹ hướng cả về con. Trong lời ru, mẹ giãi bày, thổ lộ ước mơ, khát vọng ấy :
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân...
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mời Ka-lưi...
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nớc
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do...
Trong mỗi hoàn cảnh khác nhau, lời ru của người mẹ gửi gắm những ước mơ khác nhau. Song tất cả đều là ước vọng về con trong tương lai. Mẹ giã gạo, lời ru nhắn nhủ con hãy chắp ước mơ của mẹ cho "gạo trắng ngần", ước mơ mai sau con trưởng thành với sức vóc "vung chày lún sân". Mẹ tỉa bắp trên núi, lời ru nhắn nhủ con hãy chắp ước mơ của mẹ cho "hạt bắp lên đều", mong ước mai sau con lớn có được sức mạnh có thể "phát mười Ka-lưi". Và trong khúc ru cuối bài thơ, là ước vọng của người mẹ về ý chí, niềm tin vào tương lai chiến thắng, là mong mỏi con sẽ chắp ước mơ được thấy Bác Hồ của mẹ, khao khát Tự do cho đất nước, Tự do của mẹ, Tự do cho con.
Câu hát mỗi lúc một bay cao hơn, ước mơ của người mẹ mỗi lúc một lớn hơn, vươn tới những điều đẹp đẽ, cao cả hơn, và niềm tin vững chắc, hi vọng vào tương lai cũng theo đó mà bay bổng, mang dáng vóc của anh hùng ca :
- Mai sau con lớn vung chày lún sân
- Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
- Mai sau con lớn làm người tự do.
3. Trong sức mạnh "xẻ dọc Trường Sơn" năm xưa, bước chân nào là bước chân của người mẹ Tà-ôi ?! Sức mạnh thần kì ấy bắt nguồn từ những nhọc nhằn, gian khó, từ những ước mơ của các mẹ đấy thôi ! Đất nước hài hoà nồng thắm, các mẹ lại hát ru muôn đời.
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
1. Dân tộc ta có những truyền thống cao quí mà nổi bật là truyền thống đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm. Truyền thống ấy được phát huy từ tinh thần đoàn kết của cả dân tộc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền đồng bằng cho đến vùng rừng núi.
Trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện truyền thống ấy một cách đặc sắc qua hình ảnh bà mẹ cõng con lên rẫy. Những lời người mẹ ru con bộc lộ sâu sắc tinh thần yêu nước cùng ý chí quyết tâm đánh giặc đến cùng của đồng bào các dân tộc nói riêng và nhân dân ta nói chung.
2. Cách đọc:
- Đọc kĩ bài thơ và phần chú thích trong sách giáo khoa.
- Đọc diễn cảm cả bài thơ, chú ý cách ngắt nhịp trong các câu thơ để diễn tả tình cảm yêu thương tha thiết của người mẹ Tà-ôi với con và với cách mạng thể hiện qua lời ru dịu dàng, đằm thắm.
ÁNH TRĂNG
Nguyễn Duy
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |